Chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư và thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư
Nội dung bài viết này Luật Minh Anh xin đề cập đến việc Chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư và thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư được quy định tại Luật đầu tư 2014
Theo Luật đầu tư 2014 và Nghị định số 118/2015/NĐ-CP (Nghị định 118) đã có hiệu lực thi hành thay thế Luật đầu tư 2005 và Nghị định số 108/2006/NĐ-CP (Nghị định 108) mà chúng tôi đã có dịp tư vấn cho khách hàng của mình. Qua đó, Luật Minh Anh hy vọng rằng thực tiễn áp dụng Luật đầu tư 2014 và Nghị định 118 cho những tình huống này sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm các nội dung có liên quan.
Giá trị pháp lý của Giấy chứng nhận đầu tư :
Điều 50/ Luật Đầu tư 2005 về thủ tục đầu tư gắn với thành lập tổ chức kinh tế, nhà đầu tư sẽ được cấp Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp:
- Nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam phải có dự án đầu tư và làm thủ tục đăng ký đầu tư hoặc thẩm tra đầu tư tại cơ quan nhà nước quản lý đầu tư để được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
- Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập tại Việt Nam nếu có dự án đầu tư mới thì được làm thủ tục thực hiện dự án đầu tư đó mà không nhất thiết phải thành lập tổ chức kinh tế mới.
Trong khi đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 22 của Luật đầu tư 2014 về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế, nhà đầu tư sẽ được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư dành cho dự án đầu tư trước, sau đó là Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho tổ chức kinh tế được thành lập để thực hiện dự án đầu tư:
Nhà đầu tư được thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật. Trước khi thành lập tổ chức kinh tế, nhà đầu tư nước ngoài phải có dự án đầu tư, thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
Sự khác biệt về quy định liên quan đến giấy phép dành cho dự án đầu tư và tổ chức kinh tế thực hiện dự án đầu tư giữa Luật đầu tư 2005 và Luật đầu tư 2014 như vừa nêu đã tạo nên sự khác biệt trong quy định hiện hành về việc thu hồi giấy phép này giữa các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động theo Giấy chứng nhận đầu tư và các doanh nghiệp hoạt động theo Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư khi chấm dứt dự án đầu tư mà sẽ được chúng tôi trình bày cụ thể hơn dưới đây:
Chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư và thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư :
Tại khoản 1 Điều 48 của Luật đầu tư 2014 quy định chi tiết các căn cứ dẫn đến hoạt động của dự án đầu tư bị chấm dứt, trong đó trường hợp dự án bị chấm dứt hoạt động theo quyết định của cơ quan đăng ký đầu tư, bao gồm:
- Dự án đầu tư thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 47 của Luật này mà nhà đầu tư không có khả năng khắc phục điều kiện ngừng hoạt động;
- Nhà đầu tư bị Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án đầu tư hoặc không được tiếp tục sử dụng địa điểm đầu tư và không thực hiện thủ tục điều chỉnh địa điểm đầu tư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày có quyết định thu hồi đất hoặc không được tiếp tục sử dụng địa điểm đầu tư;
- Dự án đầu tư đã ngừng hoạt động và hết thời hạn 12 tháng kể từ ngày ngừng hoạt động, cơ quan đăng ký đầu tư không liên lạc được với nhà đầu tư hoặc đại diện hợp pháp của nhà đầu tư;
- Sau 12 tháng mà nhà đầu tư không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện dự án theo tiến độ đăng ký với cơ quan đăng ký đầu tư và không thuộc trường hợp được giãn tiến độ thực hiện dự án đầu tư theo quy định tại Điều 46 của Luật này;
Theo đó, cơ quan đăng ký đầu tư quyết định chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư sẽ đồng thời Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với dự án đầu tư được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư chấm dứt hiệu lực kể từ ngày quyết định chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư có hiệu lực [điểm c, khoản 2, Điều 41 của Nghị định 118];
Trong khi đó, đối với dự án đầu tư hoạt động theo Giấy chứng nhận đầu tư (đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh), cơ quan đăng ký đầu tư quyết định chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư mà Không Thu Hồi Giấy chứng nhận đầu tư, Trong trường hợp này, nội dung đăng ký kinh doanh tại Giấy chứng nhận đầu tư (đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh) tiếp tục có hiệu lực [khoản 3, Điều 41 của Nghị định 118];
Mặc dù quy định có vẻ khác biệt giữa điểm c, khoản 2 (quy định chỉ thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ) và khoản 3 (không thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời giữ nguyên hiệu lực của nội dung đăng ký kinh doanh), Điều 41 của Nghị định 118, tuy nhiên các quy định này đều truyền đạt tư tưởng thống nhất của nhà làm luật là vẫn duy trì sự tồn tại của tổ chức kinh tế. Bởi lẽ, pháp luật về đầu tư kể cả cũ và mới đều có quy định rằng một tổ chức kinh tế có thể cùng thực hiện nhiều dự án. Do vậy, khi một dự án bị chấm dứt hoạt động thì vẫn còn (những) dự án khác đang được triển khai và cần duy trì hoạt động.
Qua thực tiễn giải quyết vụ việc khi chấm dứt hoạt động của dự án [được cấp Giấy chứng nhận đầu tư (đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh], cơ quan đăng ký đầu tư vẫn tiến hành thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư thông qua một quyết định thu hồi. Tuy nhiên, trong quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư của cơ quan đăng ký đầu tư sẽ có phần thể hiện nội dung đăng ký kinh doanh của tổ chức kinh tế vẫn có hiệu lực theo quy định.
Như vậy, đối nhà đầu tư đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư là cần thực hiện sớm thủ tục Tách Giấy chứng nhận đầu tư thành Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Khi đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến hành thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo quy định của pháp luật hiện hành còn Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp vẫn giữ nguyên hiệu lực để doanh nghiệp thực hiện các dự án khác. Ngoài ra, các nhà đầu tư nước ngoài nên chủ động tham vấn ý kiến của luật sư hoặc cơ quan đăng ký đầu tư để nắm rõ hơn quy định về thủ tục về việc thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư cũng như thủ tục ghi nhận hiệu lực của nội dung đăng ký kinh doanh hoặc tách Giấy chứng nhận đầu tư thành Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp để tiếp tục hoạt động dự án đầu tư tại Việt Nam.